Cách soạn một bài diễn văn (Kỳ 1): Tìm và sắp ý

Cách soạn một bài diễn văn (Kỳ 1): Tìm và sắp ý

Một bài diễn văn được chuẩn bị kỹ lưỡng sẽ giúp bạn gia tăng tự tin không nhỏ.

Kỳ 1: Kiếm và sắp ý

Lựa vấn đề bạn yêu nhất

Hồi còn đi học, thầy giáo ra đầu đề nào, ta phải bắt buộc diễn tả đề ấy. Ra đời, khi muốn diễn thuyết, thường thường ta có quyền lựa chọn đầu đề.

Nhưng lựa cách nào?

Chương trên tôi đã nói muốn thuyết phục người, ta phải hăng hái, nghĩa là phải yêu vấn đề ta bàn. Vậy trước nhiều vấn đề, bạn nên lựa vấn đề bạn yêu nhất, ấp ủ từ lâu, dù nó có khô khan hoặc khó diễn cũng không sao. Nó khô khan, nhiệt tâm của bạn sẽ giúp nó có sinh khí, và một khi bạn hăng hái muốn bênh vực quan niệm của bạn thì sẽ tự nhiên hiện ra trong óc, lời sẽ được thốt ra miệng bạn, Sợ chi khó diễn tả nữa.

Có tác giả khuyên lựa vấn đề ta biết rõ nhất. Nhưng có khi vấn đề ta biết rõ nhất lại là vấn đề ta không muốn bàn tới. Tôi quen một ông bạn đốc công trên 10 năm biết tường tận nghề xây cầu cống nhưng lại thăm anh ấy, hỏi về những kinh nghiệm của anh trong khi đóng cừ, xây móng thì anh đáp qua loa rồi kéo câu chuyện về thơ. Anh không phải là thi sĩ, chỉ thuộc được ít chục bài thơ nhưng bình phẩm những bài ấy hăng hái làm sao! Có lần tôi nghe mà mê, nhưng khi ra về, xét lại, nhận thấy những lời phê bình của anh phần nào thiên vị.

Đã đành điều nào không biết rõ chớ nên nói ra nhưng điều kiện cốt yếu là phải yêu vấn đề đã, rồi lại nghiên cứu kỹ càng, như vậy mới thành công được.

Đừng quên tính cách nhất trí của vấn đề

Khi đã lựa được vấn đề rồi, xin bạn đừng quên tính cách nhất trí của nó. Chúng ta nói là để chứng minh một điều hoặc gây một cảm tưởng trong tâm hồn người nghe, nghĩa là ta phải có một mục đích rõ rệt.

Ta không thể đồng thời đi tới hai cái đích được. Ta có thể vượt một đích này rồi mới tới một đích khác như vậy cái đích cuối cùng thiệt là cái đích chính. Trong bài diễn văn cũng vậy; ta có thể diễn ý này rồi tới ý khác, nhưng tựu trung vẫn có một ý chính. Đừng bao giờ quên ý ấy. Sắp sao cho hết thảy những ý khác đều đưa tới ý ấy, tức là giữ tính cách nhất trí cho đầu đề.

Làm một dàn bài giản lược

Đã vạch rõ đích rồi, ta phải định hướng để đi tới, nghĩa là phải làm một dàn bài giản lược.

Muốn cất ngôi nhà, trước hết bạn phải vẽ bản thiết kế đã, phải không? Không vẽ trên giấy thì ít nhất cũng phải vẽ trong óc : nhà rộng bao nhiêu, dài bao nhiêu, hướng về phương nào, có mấy phòng, phòng nào ở đâu... Soạn một bài diễn văn cũng vậy. Nếu không định trước những đại cương, ta sẽ hoang mang không biết phải nói những gì và cũng sẽ hoang mang không biết phải nói những gì và cũng không biết nên kiếm những ý phụ nào nữa.
Vài lỗi phải tránh trong khi dàn bài

Bạn phải tránh những lỗi thông thường sau này :

a) Điêp ý vì vụng sắp đặt

Ví dụ bạn muốn kể những hoạt động của một nhà văn ở Nam Định và một nhà chính trị ở Hà Nội trước nạn đói 1945 ở Miền Bắc mà bạn sắp đặt như sau :

I. Giới thiệu hai người

II. Kể chuyện
1 - Nạn đói ở Nam Định
2- Hoạt động của nhà văn
3- Nạn đói ở Hà Nội
4- Hoạt động của nhà chính trị

III. So sánh hoạt động của hai người

Đoạn 1 và 3 sẽ giống nhau (điệp ý). Bạn có thể bỏ đoạn 3 đi mà trong đoạn 1 tả chung cảnh đói ở Miền Bắc trong bối cảnh lịch sử 1945

b) Thiếu cân đối

Phần quan trọng ngắn quá, phần không quan trọng lại dài quá, thành thử độc giả có cảm tưởng đứng trước một bức hoạ vẽ một người đầu lớn hơn bụng, hoặc lưng ngắn độ 2 gang tay mà chân dài tới 2 thước.

Ví dụ trong chuyện Thuý Kiều nếu Nguyễn Du tả Thúy Vân trong 20 câu. Thuý Kiều trong 4 câu thì như vậy là thiếu sự cân xứng.

Trong đầu đề trên, nếu bạn tả nạn đói tới 6, 7 trang mà tả hoạt động của hai người chỉ trong 1, 2 trang cũng thiếu sự cân xứng nữa.

c) Ý tưởng liên lạc tự nhiên với nhau.

Nếu so sánh Nguyễn Du và Đồ Chiểu chẳng hạn, bạn theo thứ tự sau này

1- Thời đại
2- Gia thế
3- Văn chương
4- Tính tình

thì ý tứ không được liên lạc tự nhiên với nhau, vì thời đại và gia thế ảnh hưởng tới tính tình, rồi tính tình lại ảnh hưởng đến văn chương. Vậy phải để tính tình lên số 3 và văn chương xuống số 4
Vài lối dàn bài

Có rất nhiều cách sắp ý lắm. Nếu vạch lại đời một danh nhân, ta nên theo thứ tự thời gian :

1- Hồi nhỏ (gia thế, ảnh hưởng của người thân, học ở đâu, chuyên về môn gì?. . . )
2- Lúc lớn lên (những thành công và thất bại, chí hướng có thay đổi không?. . . )
3- Xét công trạng của danh nhân ấy đối với xã hội

Nếu chỉ xét một quãng đời thôi, ta có thể :

1 - Kể qua quãng đời trước và kiếm nguyên nhân những sự thay đổi trong chí hướng của danh nhân.
2- Kể rõ quãng đời ta muốn bàn : ảnh hướng của cảnh ngộ, tính tình, hoạt động.
3- Quãng đó ảnh hướng tới quãng sau ra sao?

Muốn phê bình một công nghiệp của ai, dàn bài như sau này là được :

1- Xét chung những công nghiệp của người ấy
2- Xét riêng công nghiệp ta muốn phê bình : khó khăn ra sao, đặc biệt chỗ nào...
3- Chỉ rõ công nghiệp ấy có địa vị gì trong công nghiệp chung và ảnh hưởng gì tới hành động của danh nhân và đời sống của xã hội

Tuỳ đầu đề, ta cũng có thể dàn bài như sau :

1- Mục đích
2- Hành động
3- Kết quả

Hoặc :

1- Kể rõ sự kiện
2- Lấy ra một bài học thực tiễn

Hoặc :

1- Vạch một điều xấu
2- Nó xấu vì những lẽ gì?
3- Phải sửa đổi ra sao?

d) Nghiên cứu cách bố cục của các đoạn văn danh tiếng

Không thể nào kể hết các lối sắp ý được vì nó thay đổi tuỳ theo đầu đề. Muốn tập cách dàn bài, bạn nên nghiên cứu những đoạn văn có danh tiếng, tìm những ý chính trong đoạn rồi lặp lại bố cục của tác giả, sau cùng phê bình.

Ví dụ : lấy đoạn tả Thúy Vân và Thúy Kiều của Nguyễn Du.

Đầu lòng hai ả tố nga 15
Thuý Kiều là chị, em là Thúy Vân
Mai cốt cách, tuyết tinh thần
Mỗi người một vẻ, mười phân vẹn mười
Vân xem trang trọng khác vời 20
Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang
Hoa cười ngọc thốt đoan trang.
Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da
Kiều càng sắc sảo mặn mà,
So bề tài sắc lại là phần hơn.
Làn thu thủy, nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh
Một hai nghiêng nước nghiêng thành
Sắc đành đòi một, tài đành hoạ hai
Thông minh vốn sẵn tính trời
Pha nghề thi hoạ, đủ mùi ca ngâm 30
Cung thương, lầu bực ngũ âm
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương
Khúc nhà tay lựa nên chương
Một thiên bạc mệnh lại càng não nhân.
Phong lưu rất mực hồng quần 35
Xuân xanh sắp sỉ tới tuần cặp kê
Êm đềm tướng rủ màn che
Tường đông ong bướm đi về mặc ai

Ta thấy 4 câu đầu (15-18) là đoạn mở, tả chung 2 người, 4 câu sau (19- 22) tả Thúy Kiều. Trong đoạn tả Thúy Kiều, ta lại có thể phân biệt 4 đoạn nhỏ : 2 câu 23- 24 là đoạn chuyển so sánh Thúy Kiều với Thúy Vân; 4 câu 25-28 tả sắc Thuý Kiều; 6 câu 29 - 34 tả tài của nàng và 4 câu cuối tả tính tình của nàng.

Vậy bố cục của Nguyễn Du như sau này :

1- Đoạn mở : tả chung 2 người 4 câu
2- Đoạn tả Thuý Vân 4 câu
3- Đoạn tả Thuý Kiều
a) Chuyển 2 câu
b) Tả sắc 4 câu
c) Tả tài 6 câu
d) Tả tính tình 4 câu

Tổng cộng 24 câu

Mạch lạc thật rõ ràng, ý tứ 1iên tiếp rất tự nhiên làm bài văn lại rất cân xứng nữa.

Các bạn thử phân tích đoạn Thuý Kiều xin Kim Trọng đem tình cầm sắt đổi ra cầm kỳ (câu 3091 - 3112) xem ý tứ có 1iền lạc với nhau không. Trong đoạn ấy Nguyễn Du đã cho nàng Kiều một tài ăn nói rất mực.

e) Khi tìm ý phụ nên thong thả đợi tiềm thức phụ lực với ta

Đã định xong nòng cốt cho bài rồi, ta phải kiếm thêm ý phụ

Chỉ khi nào đã nòng cốt rồi mới nên kiếm ý phụ, vì nếu kiếm trước ta sẽ hoang mang, cũng như chưa định hướng mà đã tìm lối đi vậy.

Về cách kiếm ý cũng không có phương pháp nào nhất định hết, kiếm dễ hay không là tùy óc tưởng tượng, cùng kinh nghiệm và học thức của mỗi người.

Nhưng có một định luật không bao giờ sai là nếu không chịu tốn công thì không bao giờ có kết quả. Có khi nào chỉ đào 5, 6 thước cũng gặp mạch nước thật đấy, nhưng thường phải đào cả chục, cả trăm thước, mà càng sâu dòng nước càng trong, mạch càng lâu cạn.

Tuy vậy, không nên hăm hở ngồi vào bàn, bóp trán suy nghĩ suốt ngày để kiếm ý. Cứ thong thả miễn đừng quên bẵng công việc là được. Trong khi ăn, trong khi trò chuyện vui chơi, thỉnh thoảng nghĩ tới một chút rồi lại nghỉ ngơi để cho đầu đề tự nó chín mùi.

Tại sao lại như vậy? Là vì tiềm thức của ta lạ lùng lắm. Nó làm việc mà ta không hay, và làm việc cả khi ta ngủ nữa.

Chắc bạn đã nghiệm thấy nhiều lần, bỏ cả buổi tối học bài mà không thuộc, bạn bực mình gấp sách đi ngủ; sáng hôm sau, tỉnh dậy, nghĩ tới bài học, trả thử, thấy nhớ được nhiều, bèn ngồi nhỏm dậy mở sách ra coi lại một hai lượt thì bài đã thuộc trơn tru rồi. Như vậy là nhờ trong khi ta đang say mê giấc điệp, tiềm thức học bài giùm ta. Lại có những lần ta vò đầu kiếm cách giải một bài toán mà không ra, bèn bỏ đi, quên nó đi. Rồi đột nhiên trong lúc chơi giỡn, ta bỗng thấy cách giải. Cũng lại nhờ tiềm thức kiếm giùm ta nữa.

Vậy ta cứ lâu lâu nghĩ tới đầu đề một chút rồi mặc cho tiềm thức, người giúp việc trung thành và tận tụy ấy, kiếm ý giúp ta, rồi thình lình ta sẽ thấy ý tới, có khi tới cả chuỗi, xô đẩy nhau tới, thao thao bất tuyệt. Chúng thiệt khó chịu! Khi mình năn nỉ chúng thì chúng trốn đâu mất hết, khi không thèm nghĩ tới chúng nữa thì chúng ùa nhau lại, ghi không kịp.
Tìm ý phụ cách nào?

Có tác giả khuyên muốn kiếm ý phụ, nên tìm định nghĩa của những tiếng quan trọng trong bài rồi phân tích từng đại ý, tìm nguyên nhân và kết quả, xét kỹ lý thuyết cùng phương pháp, thực hành, hoặc nghĩ cách chiết trung... Nhưng lời khuyên ấy phải tuỳ đầu đề mới áp dụng được. ..

Theo tôi, chỉ cần tự hỏi 7 câu sau này của Quintilien, một nhà hùng biện La Mã sống cách đây non 2. 000 năm.

Ai? Cái gì? Ở đâu? Bằng cách nào? Tại sao? Ra sao? Khi nào?

Muốn tập Suy nghĩ và tìm ý, ta nên phân tích những bài văn của các danh sĩ, kiếm bố cục rồi tìm theo bố cục ấy ta diễn lại ý của tác giả, lần đầu ráng đừng dùng những tiếng của nguyên văn.

Ví dụ ở trên kia chúng ta đã phân tích đoạn tả bài tài sắc Thúy Vân và Thuý Kiều. Tôi chắc ai cũng thuộc lòng đoạn ấy hết. Bây giờ bạn thử diễn lại đủ những ý của Nguyễn Du bằng những lời của bạn nghĩa là ráng tránh những tiếng mà thi sĩ đã dùng. Chẳng hạn, bạn có thể nói :

- Hai người con gái đầu lòng của Vương Viên ngoại là Thuý Kiều và Thuý Vân. Cả hai đều đẹp.

Vân có vẽ trang nhã, mặt tròn, mày ngài, da trắng, tóc đen.

Nhưng tài sắc đều kém xa Thuý Kiều

Vẻ đẹp của Kiều rất sắc sảo: mắt long lanh, tóc xanh mượt, làm cho hoa cũng phải ghen, liễu cũng phải hờn, nước phải nghiêng và thành phải đổ.

Đã vậy nàng lại đa tài, vừa thông minh, vừa giỏi thi, họa, nhất là ngón hồ cầm của nàng thì không ai bì kịp. Chính nàng đặt ra được một khúc bạc mệnh ai oán não nùng vô cùng.

Tuy đã 15, 16 tuổi, nhưng nàng vẫn sống êm đềm nơi phòng khuê, không dan díu với ai cả.

Những vai chính trong tác phẩm bất hủ của Tố Như, như Thuý Kiều, Kim Trọng, Hoạn Thư, Từ Hải, đều có tài ăn nói. Bạn nên phân tích những đoạn thoại của họ.

Trong phần phụ lục bạn sẽ thấy nhiều bài làm kiểu mẫu. Xin bạn phân tích những bài ấy rồi diễn lại đủ những ý, nhưng dùng lời của bạn. Đó là một cách tập suy nghĩ, kiếm ý và sắp ý.
Tìm tài liệu

f) Muốn có đủ ý, ta phải tìm tài liệu

Tài liệu là những bằng cớ ta dùng để chứng minh hoặc bênh vực lý luận của ta. Ví dụ ta muốn nói về Đỗ Chiểu. Nhưng ta biết rất ít về cụ, không đủ cho ta nói trong nửa giờ hoặc một giờ. Ta phải tìm thêm ý trong các sách vở, báo chí, ta lại phải tới Ba Tri, nơi cụ dạy học, tìm những di tích của cụ, hỏi thăm cháu chắt cụ, nếu gặp, hoặc phỏng văn con cháu những bạn thân của cụ. Những điều ta tìm tới, hỏi han thêm được, đó là tài liệu.

Vậy tài liệu ở trong sách vở, báo chí, ở trên những tấm bia, tấm ký và cũng do khẩu truyền nữa.

Những tài liệu kiếm được, ta phải cân nhắc thận trọng, những ý tưởng mượn được, ta phải suy xét kỹ lưỡng rồi hãy đem dùng. Có óc biết so sánh lý luận, tức như biết rõ dụng cụ trong nhà nên dùng vào việc gì, trong những trường hợp nào và nên đặt ở đâu. Khi có tiệc tùng khách khứa, có thể mượn đây một chiếc ghế, kia một bộ chén được. Nếu không có óc ấy thì dù không mượn được những bàn ghế bằng gỗ, nu những chén đĩa bằng vàng bạc mà không bày biện thì cũng làm cho khách khứa thêm cười mình chứ không ích lợi chi hết.
Khi phát hiện ra phải ghi liền

Khi một ý thoáng hiện trong óc ta, ta phải chụp lấy nó liền, kẻo nó trốn mất, nghĩa là phải ghi ngay trên giấy, dù đã lên giường nằm rồi cũng phải dậy ngay, vặn đèn lên, ghi luôn vào sổ.

Một thi nhân Trung Quốc thời xưa, đang đại tiện sực tìm ra một văn thơ, vội kiếm cách ghi ngay trên nhà xí, cho khỏi quên. Một thi nhân khác, Lý Hạ đời Đường có tật làm thơ trên lưng lừa, luôn luôn đeo theo mình một túi gấm, hễ nghĩ được câu nào thì chép lại, bỏ vào túi.

Ông Dwight L. Moody, một nhà thuyết giáo nổi danh ở Mỹ, mỗi lần lựa được một đầu đề nào thì viết nó lên một bao thư lớn. Ông có rất nhiều bao thư như vậy. Đọc sách gặp một tài liệu hợp với đầu đề, hoặc đi dạo mát, tìm được một ý, ông chép lại, bỏ vào bao thư. Bao thư của D. L. Moody tức là túi gấm của Hạ Lý.

Nếu bạn không muốn chép mỗi ý vào một miếng giấy nhỏ mà muốn chép chung cả vào vài tờ, thì sau mỗi ý bạn nên chừa một khoảng trống để sau này viết thêm vào được.
Vài lời khuyên trong khi lựa ý

Khi kiếm ý, gặp bất cứ ý nào liên lạc với vấn đề, ta cũng chép lại, để tìm đủ rồi ta sẽ sàng, sẩy, gạn, lọc.

Lúc ấy, bạn nên nhớ những quy tắc sau này :

+ Cần nhất là rõ ràng. Những ý nào chưa được minh bạch phải suy nghĩ lại, nếu suy nghĩ mà vẫn còn lờ mờ thì bỏ.

+ Rồi tới thành thật. Nếu bạn không thân tín những ý bạn muốn diễn thì làm sao người khác tin lời bạn được? Nếu cảm hứng của bạn không chân thành, làm sao người khác không nghe bạn mà cảm động được? Trước những kẻ thương vay khóc mướn, bạn thấy buồn rầu hay thấy nực cười và thương hại? Phải thành thật cả với bạn nữa : chỉ con số nào chắc chắn mới đưa ra, còn nghi ngờ thì bỏ.

+ Đừng nên 1ý thuyết nhiều quá mà nên dùng nhiều chứng cớ, nhiều thí dụ. Những tác phẩm của Dale Carnegie được rất nhiều người đọc một phần vì những vấn đề ông bàn rất hợp thời, một phần vì sách đầy những chuyện thật và rất ít lý thuyết.

Ông không bàn suông. Ông đã theo đúng quy tắc của Herbert Spencer.

- Mục đích cuối cùng của giáo huấn không phải để biết mà để hoạt động

+ Bạn đừng nên quên rằng bài diễn văn không phải là một bài học, hoặc một luận thuyết cho nên không cần đầy đủ mà cần đặc sắc để đập mạnh vào óc và tim của thính giả cho họ nhớ được. Có người cho rằng trong một giờ, nhồi được vào óc thính giả nhiều lắm là ba ý chính. Đúng như vậy. Đừng nên tham lam quá. Ba ý là đủ rồi, nhưng phải nói sao cho những ý ấy khắc sâu vào đầu óc thính giả và bao nhiêu ý phụ phải quy tụ cả chung quanh ba ý chính ấy thì thính giả mới khỏi hoang mang. Kẻ nào muốn chứng minh nhiều quá thì không chứng minh được gì hết.

Vậy bạn phải biết tự hạn chế. Boileau nói :

- Người nào không biết tự hạn chế, không bao giờ biết viết.

Bạn kiếm được mười ý đều hay hết, bạn đã mừng rồi ư? Chưa nên. Bạn phải bỏ đi 6, 7 ý, giữ lại 3, 4 thôi. Bạn tiếc những ý đó lắm, tôi biết. Nhưng tiếc thì tiếc, bạn cũng phải bỏ và chỉ khi nào không thấy tiếc nữa thì những ý bạn giữ lại mới có hy vọng làm cho thính giả chăm chú nghe được.
Sắp đặt những ý phụ

Khi đã lựa chọn kỹ càng rồi, bạn sắp những ý phụ đó vào từng đoạn chính trong bài. Phải sắp làm sao cho các ý liên lạc tự nhiên với nhau. Công việc này có khi khó khăn. Nếu gặp một ý nào đặc sắc mà không biết đặt vào đâu cho phải chỗ thì bạn phải hy sinh nó nữa. Nhiều quá chỉ làm rối óc thính giả.

Nên viết mỗi ý chính lên đầu một trang giấy rồi ở dưới chép những ý phụ liên lạc với ý chính ấy. Làm xong việc này tức là bạn đã có một dàn bài đầy đủ, tường tận rồi vậy. Bây giờ chỉ còn việc phô diễn thôi.

g) Một thí dụ

Nhưng trước khi chỉ cách phô diễn, tôi hẵy xin lấy một thí dụ để bạn hiểu rõ thêm.

Giả sử bạn muốn bàn về Đạo Nhàn trong văn thơ Việt Nam, bạn đừng quên định một tính cách cho đầu đề. Chẳng hạn mục đích duy nhất của bạn là làm cho thính giả thấy một cái khoáng đạt của đạo Nhàn. Vậy bất kỳ ý gì trong bài cũng phải đưa bạn tới mục đích ấy. Nếu bạn so sánh những văn thơ tả tâm trạng nhàn với những văn thơ tả cảnh, tả tình thì bạn sẽ lạc đề. Nểu bạn lại quá dài dòng so sánh đạo Nhàn với lối sống ồ ạt của phương Tây bạn cũng lại lạc đề nữa.

Dàn bài giản lược của bạn có thể như sau :

1- Đạo nhàn ở đâu ra?
2- Thế nào là Nhàn?
3- Vài chục năm gần đây văn thơ của ta còn ca tụng đạo Nhàn không? Tại Sao?

Tôi nói "có thể" vì dàn bài không nhất định phải như thế. Như phần ba có thể đổi như sau :

Đạo Nhàn ảnh hưởng tới văn thơ của ta ra sao?

Hoặc :

Đạo Nhàn bây giờ còn hợp thời không?

Phần 1 có thể dài khoảng một trang; phần 3 cũng vậy; còn phần giữa, quan trọng nhất, phải dài 5, 6 trang. Như vậy mới có sự cân xứng.

Định như vậy rồi, bây giờ bạn mới kiếm ý và tài liệu. Chẳng hạn đọc những sách về văn học của Trung Quốc và Việt Nam, bạn kiếm được những ý dưới đây :

1- Lão, Trang có thuyết vô vi
2- Khổng, Mạnh có thuyết xuất sử
3- Đạo Phật không nói tới Nhàn
4- Đào Tiềm là thuỷ tổ của loại thơ Nhàn
5- Đào Tiềm, Lý Bạch là thánh Nhàn
6- Chữ Nhàn có chữ nguyệt ở trong chữ môn nghĩa là đứng ở cửa ngắm trăng lên
7- Nhàn là có tâm hồn khoáng đạt, thanh cao, ung dung
8- Những thi sĩ theo đạo Nhàn ở nước ta là Chu văn An, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Khuyết. ..
9- Những vị đó là nhà Nho có lúc không gặp thời
10- Nhàn là coi phú quý như chiêm bao
11- Văn thơ của ta chịu ảnh hưởng của văn thơ Trung Quốc
12- Văn thơ là phản ánh của xã hội
13- Nhàn là uống rượu, ngâm thơ, đánh cờ, trồng hoa, uống trà
14- Có tâm hồn ưa nhàn mới thích ngắm cảnh đẹp của thiên nhiên
15- Nhàn không hẳn là ở không. Cày ruộng, dạy học cũng có thể là nhàn được.
16- Nhàn là chán đời mà văn vui cảnh đời
17- Phương Tây có mơ mộng chứ không có nhàn. Từ khi có văn minh cơ khí
18- Trong những tác phầm của các văn nhân thi sĩ lớp mới, không thấy bài nào ca tụng đạo Nhàn.
19- Văn minh phương Đông là tĩnh, phương Tây là động
20- Đời sống vật chất thay đổi thì đời sống tinh thần cũng thay đổi
21- Gần đây chỉ có vài danh nhân trong phái cổ như Nguyễn Khắc Hiếu, Bùi Kỷ là còn có một vài bài về Nhàn.
22- Sự mơ mộng của J. J. Ruosseau, Chateaubriand, Lamartine
23- Nhàn không hợp với thời đại cơ khí
24- Sự mơ mộng cũng làm cho thi nhân yêu tạo vật
25- Nhàn là thản nhiên với sự đời

Vân vân...

Bạn lấy ba tờ giấy trắng mỗi tờ riêng cho một phần (1,2,3, trong dàn bài giản lược) rồi mỗi khi kiểm được những ý đó, bạn chép ngay vào một trong ba ý ấy. Nhớ dưới mỗi ý nên để một khoảng trắng, sau có thể viết thêm vào được.

Khi đọc xong một bài thơ về thú uống rượu, thú đánh cờ. . của người nhàn, bạn cũng chép ngay vào một miếng giấy rồi đánh dấu sao cho ta thấy ngay rằng tài liệu ấy liên quan tới ý 13 (Nhàn là uống rượu, ngâm thơ, đánh cờ...) Hoặc nếu đủ chỗ thì chép ngay tài liệu ấy ở dưới ý 13.

Khi kiểm được đủ ý, bạn lựa bỏ bớt những ý nào không sát với đầu đề hoặc không mới mẻ gì như những ý 2, 3, 4, 5... Những ý 17 và 19 chưa chắc đã đúng, cũng nên bỏ.

Chắc chắn nhận thấy trong 31 ý đó, tôi chỉ bỏ có 15 ý. Sở dĩ vậy là vì tôi đã bỏ bớt đi nhiều ý phụ khác rồi, sợ chép lại hết sẽ làm bận mắt bạn.

Bây giờ bạn phải sắp lại những ý ấy cho có 1iên lạc tự nhiên với nhau. Bạn có thể sắp như sau này :

Phần 1 Đạo Nhàn trong văn thơ Việt Nam ở đâu mà ra?

1. - Lão, Trang có đạo vô vi
2. - Văn nhân thi sĩ của ta chịu ảnh hưởng của Lão, Trang, lại thích Đào Tiềm, Lý Bạch cho nên cũng có những thơ Nhàn, như của Chu văn An, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Khuyến.

Phần 2 Nhàn là gì?

1- Là coi phú như mây nổi, ở đời không có gì đáng làm hết cho ta lao tâm khổ tứ
2- Đã không có gì đáng cho ta lao tâm khổ tứ thì :
a) Ngắm cảnh đẹp của Tạo hoá và ngao du sơn thuỷ (Trích vài câu thơ)
b) Uống rượu (Trích vài câu thơ)
c) Ngâm thơ (Trích vài câu thơ)
d) Nhắp trà (Trích vài câu thơ)
e) Đánh cờ (Trích vài câu thơ)
f) Đờn ca (Trích vài câu thơ)

3-

a) Nhưng Nhàn không phải là không làm gì, không phải là farniente, loisivete như người Pháp đã dịch
b) Vẫn có thể dạy học, cày ruộng, câu cá, hễ không đăm đăm chiêu chiêu, lo sự đắc thất thì là nhàn
c) Kể vài thí dụ : Chu Văn An, Nguyễn Bỉnh Khiêm... (Trích vài câu thơ)

4 -

a) Nhàn là chán đời (Trích vài câu thơ)
b) Nhưng văn vui những thú vui ở đời, vui mà không ham mê (Trích vài câu thơ)

5 - Tâm trạng đó khoáng đạt lắm, cho nên không phải người thường mà có được (Trích vài câu thơ)

Phần 3

Trong những năm gần đây, văn sĩ và thi nhân lớp mới không ca tụng đạo Nhàn nữa? Tại sao?

1 - Từ khi đời sống vật chất và tinh thần của ta chịu ảnh hưởng của văn minh Âu Tây thì đạo Nhàn cũng mất dần trong văn thơ, vì nó không còn hợp với thời đại cơ khí này nữa.
2- Và thi nhân cuối cùng ca tụng đạo Nhàn là Nguyễn Khắc Hiếu và Bùi Kỷ. (Trích vài câu thơ)

Một dàn bài như vậy là đủ. Tất nhiên là nếu bạn có kinh nghiệm thì có thể vừa tìm ý vừa lựa chọn, vừa sắp đặt. Ba công việc ấy không thể thiếu được, nhưng không nhất định phải tìm hết các ý, như tôi đã làm ở trên, rồi mới qua hai việc sau.

Ý đã đầy đủ và sắp đặt kỹ lưỡng, bạn bước qua giai đoạn phô diễn. Nhưng bạn nên soạn miệng hay soạn trên giấy? Trong chương sau chúng ta sẽ bàn về vấn đề ấy.

Soạn một bài diễn văn như vậy tốn công lắm, nhưng xin bạn nhớ : Thiên tài chỉ là kết quả của sự kiên tâm và hùng biện là nghệ thuật rất cao quý, làm cho ta chinh phục được tâm hồn và trí tuệ của kẻ khác, nó là "thơ của lời nói" như E. Paignon đã

Tóm tắt

1. Lựa một đầu đề nào mà bạn hăng hái muốn diễn giảng
2. Đừng quên tính cách nhất trí của đầu đề
3. Làm một dàn bài giản lược với 3 ý chính thôi. Nên tập phân tích những đoạn văn danh tiếng.
4. Kiếm ý phụ và tài liệu. Nhớ 7 câu hỏi của Quintilien : Ai? Cái gì? Ở đâu? Bằng cách nào? Tại sao? Ra sao? Khi nào?
5. Khi một ý hiện trong óc ta, thì ghi ngay nó trên miếng giấy nhỏ rồi bỏ vào bao thơ hoặc chép trên một trang giấy dành riêng cho mỗi phần trong bài.
6. Ý phải rõ ràng, thành thật
7. Nên đưa ra nhiều chứng cứ, thí dụ
8. Nhưng phải biết tự hạn chế. Khi nào bỏ hết 5, 6 ý, chỉ giữ lại 3, 4 ý mà không thấy tiếc thì diễn văn của bạn mới có hy vọng làm thính giả mê được
9. Sắp đặt lại những ý phụ cho có liên lạc tự nhiên với nhau

Xem kỳ kế tiếp: Cách soạn một bài diễn văn (Kỳ 2): Dùng trí nhớ

Nhận xét