Thân bài là phần chứa toàn bộ nội dung chính trong bài diễn văn của bạn. Nó đòi hỏi khá nhiều kỹ năng khó như phân tích, đánh giá, thảo luận và ứng biến.
Xem kỳ trước: Cách soạn một bài diễn văn (Kỳ 3): Mở bài
Kỳ 4: Đoạn giữa
Công dụng của đoạn giữa
Mỗi đoạn có một công dụng riêng.
Trong đoạn mở, bạn tự giới thiệu một cách gián tiếp tài nói của bạn, bạn phải làm sao thính giả chú ý ngay tới bạn, ham nghe câu chuyện của bạn; vì vậy lời lẽ phải gọt đẽo, ý tứ phải tân kỳ, nhưng vẫn tự nhiên.
Đoạn giữa dài nhất sẽ đưa bạn tới mục đích : hoặc thuyết phục người nghe, hoặc gây trong đầu óc họ một ấn tượng, một cảm giác gì, cho nên bạn không "nhồi gì vào đó được" như Victor Murdock đã khuyên. Ông nói quá như vậy để nhắc ta phải đặc biệt chú ý tới đoạn mở và đoạn kết. Sự thật đoạn giữa cũng quan trọng ngang với những đoạn khác.
Thính giả không có thì giờ suy nghĩ
Thính giả khác độc giả ở chỗ có ít thì giờ suy nghĩ, vì còn phải luôn luôn theo dòng tư tưởng của bạn, không thể ngừng lại để tìm hiểu những ý bạn đang diễn hoặc ôn lại những ý đã phô bày ở đoạn trên. Như vậy có lợi mà cũng có hại cho diễn giả.
Lợi ở chỗ thính giả không kịp suy xét cho nên dễ bị lôi cuốn. Chỉ cần có chút tài nói và những cảm tình chân thật, một tấm lòng hăng hái là được thính giả tin và theo trong một lúc, vì ra khỏi phòng, họ có thể suy nghĩ và bình tâm phê bình những ý của bạn được.
Hại ớ chỗ nếu lời không sáng sủa, rõ ràng, ý tứ không liên lạc tự nhiên người ta sẽ không hiểu được bạn muốn nói gì và hễ đã không hiểu một đoạn nào thì những đoạn sau có hay người ta cũng không muốn nghe nữa.
Như vậy bạn làm sao thuyết phục được họ? Nhất là nói trước quần chúng bình dân, ít suy nghĩ, lời lẽ càng bóng bẩy trừu tượng bao nhiêu càng khó hiểu bấy nhiêu và họ càng chán bấy nhiêu. Các nhà chính trị hiểu rõ điều ấy lắm, nên lời lẽ của họ rất thông thưởng mà lôi cuốn được đám đông. Còn các vị thạc sĩ, bác sĩ, lời lẽ rất chải chuốt lại không được hoan nghênh, mặc dầu diễn văn của họ đăng trên báo, in trong sách, được phái trí thức rất thưởng thức.
Cụ thể hoá những cái trừu tượng
Vậy điều kiện chủ yếu là phải sáng sủa, sáng sủa gấp ba một bài luận văn viết trên giấy. Mà muốn sáng sủa, xin bạn đừng lý thuyết nhiều quá và ráng cụ thể hoá những cái trừu tượng. Đừng nói : "hy sinh cho tổ quốc" mà nói "xả thân trên bãi chiến trường"; đừng nói "tính kiêu căng" mà nói “tính coi người như cỏ rác, coi người bằng nửa con mắt"; đừng nói "người ấy lễ độ”, mà nói "lời lẽ người ấy nhã nhặn, cử chỉ hoà nhã, gặp ai cũng vui vẻ chào hỏi".
Vài phép lý luận
Tuy vậy, nhiều khi cũng phải lý luận. Dưới đây tôi xin nhắc lại vài lối lý luận thông thường để các bạn tuỳ cơ dùng tới.
a) Phép tam đoạn tức là phép rất thường dùng trong môn toán học. Chắc các bạn còn nhớ định lý : Hễ A và B đều bằng C thì A và B cũng bằng nhau.
Ví dụ : làm người (A) thì ai cũng phải chết (B)
Tôi (C) là người (A)
Vậy tôi (C) sẽ chết (B)
Nghĩa là :
A = B
A = C
Vậy C = B
Ta đưa ra một chân lý chung (làm người thì ai cũng phải chết; đoạn thứ nhất), rồi đưa ra một chân lý riêng (Tôi là người : đoạn thứ nhì ) và kết luận rằng chân lý chung được áp dụng vào trường hợp riêng đó được (vậy tôi sẽ chết : đoạn thứ ba). Hết thảy có ba đoạn, cho nên kêu là tam đoạn luận.
Phép tam đoạn luận có một sức thuyết phục rất mạnh. Ta nên thường dùng nó, miễn đừng quên rằng tâm lý chung (tức đoạn đầu) có đúng, thì lý luận (tức hai đoạn sau) mới vững được.
b) Phép quy nạp rất được thường dùng trong khoa học thực nghiệm. Phương pháp này ngược với phương pháp trên. Trong phép tam đoạn luận ta dùng một chân lý chung để chứng minh một chân lý riêng, hẹp, để tìm ra một chân lý chung rộng.
Ví dụ : tôi thấy người đương thời hễ có sinh thì có tử, người Việt, người Pháp, người Mỹ, người Đức, ở đâu cũng vậy hết. Thời nay như vậy mà thời xưa cũng vậy và tôi kết luận rằng hễ làm người thì phải chết.
Phép này cũng rất thường dùng trong khoa nói, khoé dùng nó diễn giả hoá hùng hồn ngay vì mỗi một chân lý riêng có thể diễn thành một đoạn được. Đoạn này đối với đoạn kia, cân xứng nhau, rất dễ lôi cuốn thính giả.
c) Phép liên đoạn. Ta sắp những xét đoán của ta thành chuỗi, cứ kết thúc của xét đoán thứ nhất thành tiền đề của xét đoán thứ nhì thành tiền đề của xét đoán thứ ba...
Ví dụ : Ai không nghi ngờ gì hết (A) thì không tìm tòi để hiểu biết (B). Ai không tìm tòi để hiểu biết (B) thì không thấy gì hết (C). Không thấy gì hết (C) thì không biết gì hết. Có mắt như đui (D). Vậy ai không nghi ngờ gì hết (D) thì là người có mắt như đui (D)
Tóm lại: A = B (1)
B = C (2)
Vậy A = D
C = D (3)
B là kết thúc của xét đoán thứ nhất (1), thành ra tiền đề của xét đoán thứ nhì (2)...
Văn sĩ Jules Renerd dùng phép liên đoạn luận mà nói đùa một cách rất lý thú như sau :
- Nếu tôi có tài thì người ta bắt chước tôi.
- Nếu người ta bắt chước tôi, văn của tôi sẽ thành một "mốt"
- Nếu đã thành một "mốt", có lúc người ta sẽ bỏ “mốt” ấy mà theo "mốt" mới khác, nghĩa là chán văn của tôi
- Vậy thà không có tài còn hơn
d) Phép song quan. Phép này rất công hiệu, nhất là khi bạn muốn bác lý luận của ai, dồn họ vào chỗ bí, không lối ra nữa.
Muốn chứng minh một điều gì là đúng (hoặc tốt), bạn chứng minh rằng điều trái với điều ấy xét về phươug diện đều không thể có được (hoặc xấu xa).
Ví dụ bạn muốn khuyên người không nên học đánh bạc, bạn có thể lý luận như sau :
"Nếu ta tập đánh bạc thì một là ta phải chống cự với máu cờ bạc, hai là ta phải để cho nó sai khiến ta. Chống với nó, ta sẽ khổ sở lắm vì ta luôn luôn phải đấu tranh với ta; còn để nó sai khiến, ta sẽ mất hết cả nhân phẩm của ta đi. Cho nên đừng tập thói quen đó là hơn cả.
e) Phép phản chứng. Phép này tương tự với phép trên. Muốn chứng minh một điều gì là có lý thì bạn chứng minh rằng điều trái với điều đó hoàn toàn vô lý.
Những người muốn chứng minh rằng có Đấng Tạo hoá thường dùng phép ấy mà nói : Nếu không có thì ai sinh ra thuỷ tổ loài người; loài vật...? Bảo là tự nhiên mà có thì vô lý thì ở đời có cái gì tự nhiên mà có; thân thể ta cũng không phải tự nhiên mà sinh ra. Vậy thì tự nhiên phải có Đấng Sinh ra vạn vật.
Những lỗi nên tránh trong khi lý luận
Khi dùng những phép lý luận ấy, phải để ý đừng sa vào những lỗi sau này :
a) Chưa định nghĩa đã lý luận :
Biết bao người cãi nhau về đạo Nho, người thì khô cổ bênh vực, kẻ thì lớn tiếng chỉ trích; người thì tôn sùng, kẻ thì mạt sát, chỉ vì họ cho hai tiếng ấy những nghĩa khác nhau; kẻ thì cho là đạo của Khổng Tử, kẻ lại cho là lý thuyết của Tống Nho, lẻ lại chỉ nghĩ đến gốc, chỉ xét đến ngọn.
b) Đinh nghĩa Sai rồi lý luận
Ví dụ có người nói đạo Nho là đạo chủ trương sự tôn ti trật tự. Thời buổi này ai cũng bình đẳng hết. Vậy đạo Nho không còn hợp thời.
Nhưng đạo Nho nào phải chỉ chủ trương có điều ấy? Đạo Nho còn dạy điều nhân thứ, phép tuỳ thời, lẽ trung dung nữa. Vậy chưa chắc đạo ấy hoàn toàn không hợp thời.
c) Lấy môt trường hơp đăc biệt rồi nâng lên thành tổng quát
Ví dụ ta mới gặp một người miền Trung nói dối và vội kết rằng hết thẩy người miền Trung đều gian trá là rất sai.
d) Lầm về nguyên nhân
Một hôm ta ra ngõ gặp cô gái mặc áo đen tính toán việc gì cũng không thành. Ta đừng vội kết rằng màu đen là xui xẻo, vì sự ấy chưa hẳn đã là nguyên nhân những thất bại của ta hôm ấy. Nhiều khi hai việc xảy ra trước sau nhau mà không liên quan nhân quả gì nhau hết.
e) Lầm nguyên nhân với kết quả
Có nhiều học sinh vì học lực còn kém, không hiểu được bài, nên chán nản sinh ra làm biếng. Thầy học hoặc phụ huynh đừng vội đổ oan cho các em ấy rằng vì làm biếng nên không hiểu được bài. Như vậy, là lấy quả làm nhân
f) Cái vòng luẩn quẩn
Đáng lẽ phải chứng minh cả hai chân lý thì ta lại dùng chân lý này để chứng minh chân lý kia rồi dùng chân lý kia để chứng minh lại chân lý này như vậy là mắc vào vòng luẩn quẩn.
Bác quan niệm của người khác ra sao
Khi bênh vực quan niệm của bạn, bạn nên noi gương ông Charles Darwin mà đoán trước những chỉ trích của thính giả để tìm lời bác những chỉ trích ấy. Ông là một nhà tự nhiên học người Anh, nổi tiếng khắp toàn cầu. Ông đã bỏ 15 năm để viết cuốn bất hủ : "Bàn về nguồn gốc của các loài". Khi viết xong, ông biết tư tưởng của ông sẽ làm xáo trộn cả những nhận định tuy sai lầm nhưng đã sẵn có từ trước và vì vậy sẽ có rất nhiều người không công nhận thuyết mới của ông. Ông bèn bỏ ra 15 năm nữa để tưởng tượng hết những lời chỉ trích của độc giả và ông đánh đổ trước những lời chỉ trích ấy.
a) Muốn bác lý luận của kẻ khác, bạn xét xem người đó có dùng một trong sau lối lý luận tôi đã kể trên không? Có khi bạn nên tạm nhận lý luận của họ là đúng rồi chứng minh rằng nguyên tắc thì hay nhưng thực hành không được.
b) Muốn bác môt sự kiện nào người khác đưa ra, bạn có thể chỉ cho họ thấy rằng tài liệu họ dùng đều sai hoặc không đáng tin, hoặc đã bị người ta cắt bớt, xuyên tạc.
c) Muốn bác môt thành kiến, bạn phải đánh vào tâm lý đối phương. Chẳng hạn một nhà trí thức nọ có thành kiến rằng những sách viết bằng Việt ngữ đều không có giá trị, không đáng đọc. Nhưng bạn biết ông ta thích thơ Pháp lắm. Bạn ngâm một vài câu thơ mới chịu ảnh hưởng của thơ Pháp, như thơ của Xuân Diệu, rồi nhờ ông ta xem xét có giống một bài thơ nào của Pháp không. Chắc chắn là ông ấy sẽ thích. Rồi bạn chỉ những đặc điểm của thơ Việt. Như vậy chỉ trong nửa giờ là bạn làm thay đổi hẳn ý kiến của người đó được.
d) Bác những lời mỉa mai
Phải có tài ăn nói, phải lanh trí mới bác được những lời mỉa mai. Nếu bạn không có tài ấy thì tôi khuyên bạn đừng làm thinh, người ta sẽ cho mình là ngu, không hiểu được lời mỉa mai. Bạn nên nhũn nhặn mỉm cười rồi lại tiếp tục diễn, như vậy bạn tỏ ra rằng bạn hiểu đấy, nhưng lời chỉ trích ấy, bạn chỉ coi như một lời nói đùa, không quan trọng.
Vài lối hành văn
Khi biện bác bạn nên để ý nào mạnh nhất về sau cùng. Muốn “hạ" ai, bạn phải làm cho người đó lúng túng dồn họ vào thế bí đã, rồi mới đem những đòn độc nhất để đập họ một vố cuối cùng, cho họ ngoi lên không nổi. Những đoạn chuyển là những đoạn khó nhất.
Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du tả nàng Kiều sau buổi thanh minh về nhà nhớ Đạm Tiên và Kim Trọng rồi đêm nằm mơ thấy Đạm Tiên ra thơ đoạn trường, tỉnh dậy lo buồn ra sao.
Tới đoạn sau, thi sĩ tả Kim Trọng tương tự Kiều và dùng hai câu này để chuyển :
Cho hay là giống hữu tỉnh,
Đố ai gỡ mối tơ mành cho xong!
Thiệt là tự nhiên và tài tình làm sao!
Còn trong Lục Vân Tiên, hầu hết những câu chuyển vụng về như hai câu dưới đây :
Chuyện nàng sau vẫn còn lâu,
Chuyện chàng xin kể từ đầu chép ra.
Có tài như Nguyễn Đình Chiểu mà còn lúng túng trong những đoạn chuyển, huống hồ chúng ta. Cũng có thể như tính cách của chuyện kể nên cụ đồ Chiểu không chú ý trau chuốt những câu chuyện ấy.
Muốn luyện lối chuyển, bạn nên đọc kỹ chuyện Kiều. Chưa luyện được, bạn nên theo quy tắc sau này.
Nếu lời chuyển tự nhiên hiện trong óc bạn thì dùng nó, nếu không thì thôi, đừng cố kiếm cho kỳ được. Ông Pancisque Sarcey khuyên ta :
- Trong bài diễn giảng, không cần đoạn chuyển. Khi bạn đã diễn hết mọi ý rồi thì cứ qua ý khác cũng như trong bữa cơm, ăn hết món trước thì đến món sau vậy. Nếu không có một dây liên lạc nào giữa ý kiến tiếp nhau thì đặt thêm một câu chuyển không tự nhiên vào làm chi?. . . Khi nói, bạn phải để ý, đừng dùng những tế nhị, những tiểu xảo, những văn hào giả hiệu đó. Những cái ấy không có giá trị gì hết mà cũng chẳng có ích lợi gì cả. Bạn cứ thẳng thắn nói : "Chúng ta đã xét xong vấn đề ấy, bây giờ đến vấn đề sau". Nhưng tốt hơn hết là đừng nói gì hết chỉ nên ngừng một chút, cũng như khi viết, ta xuống hàng vậy, rồi không cần báo trước, bước qua đoạn khác liền.
Nếu trái lại, có một liên lạc giữa hai vấn đề thì bạn khỏi lo không cần phải chỉ rõ sự liên lạc đó ra làm chi. Đừng mất công bắc cầu giữa hai ý, vô ích.
- Trong một bài diễn văn, có khi phải dùng đủ các lối văn : tả cảnh, tả người, tả hành động, kể chuyện chứ không phải chỉ dùng riêng một lối bình luận.
Vậy bạn cũng nên luyện đủ cả những lối ấy. Bạn nên đọc kỹ truyện Kiều, lựa và chép riêng ra những đoạn tả cảnh, tả người, tả tình, tả hành động, những đoạn kể chuyện, những đoạn lý luận rồi phân tích tài nghệ của thi nhân.
Khi tả cảnh, người hoặc vật. .. bạn chỉ nên tả sơ sài và chú ý hết vào những đặc điểm vì nếu tả dài quá, thính giả nghe mau chán lắm.
Cũng là tả cảnh bốn bề mà Nguyễn Du chỉ dùng có 8 câu sau này :
Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa
Buồn trong ngọn nước mới sa,
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Buồn trông nội cỏ dầu dầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh
Buồn trông gió cuốn mặt ghềnh,
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi,
Còn trong Chinh phụ ngâm thì dùng tới 20 câu :
Trong bến nam, bãi che, mặt nước,
Cỏ biết um, dâu mượt màu xanh
Nhà thôn mấy sớm, chênh vênh
Một đàn cò đậu trước ghềnh chiều hôm
Trông đường bắc đôi chòm quán khách,
Rườm rà cây xanh ngắt núi non
Lúa thành thoi thóp bên cồn,
Nghe thôi ngọc địch véo von bên lầu
Non đông thấy lá hầu chất đống
Trĩ sập sè, mai cũng bẻ bai,
Khói mù nghi ngút ngàn khơi
Con chim bạt gió lạc loài kêu thương
Lũng tây chảy nước dừng uốn khúc,
Nhạn liệng không, sóng giục thuyền câu,
Ngàn không chen chúc khóm lau,
Cách ghềnh nào thấy người đâu đi về
Trông bốn bề chân trời mặt đất,
Lên xuống lầu thấm thoát đôi phen,
Lớp mây ngừng, mắt không nhìn,
Đâu nơi chinh chiến, đâu miền Ngọc quan?
Xét về lời cả hai đoạn đều đẹp, khó phân biệt hơn kém. Nhưng tôi vẫn thích tám câu của Tố Như hơn, không rườm rà, rất rõ ràng, đọc xong không những như trông thấy cảnh ở trước mắt mà còn có cảm tưởng buồn mênh mông, buồn hơn Chinh Phụ Ngâm nhiều.
- Một câu chuyện bao giờ cũng có ba đoạn : đoạn khai, đoạn chính và đoạn chung.
Muốn cho câu chuyện được thính giả ham mê, hồi hộp nghe từ đầu đến cuối, nóng lòng muốn biết kết quả ra sao thì bạn phải biết sắp đặt những động tác cho sự tò mò của thính giả tăng lên lần lần cùng với hứng thú của câu chuyện. Khi hứng thú lên tới cực điểm rồi thì nên kết thúc ngay, đừng bắt thính giả phải đợi lâu quá.
Vả lại cũng đừng nên kể lể con cà con kê, kể càng ngắn càng hay, văn càng khéo. Bạn nên đọc những chuyện "Nằm vạ", "ma đậu" của Bùi Hiển, những truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan và tập thư của bà De Sevigne.
Lối tự sự dễ làm cho thính giả chăm chú nghe bạn, miễn là bạn nói có duyên một chút. Bạn càng lý luận bao nhiêu họ càng nghi kỵ, thủ thế bấy nhiêu vì ai cũng có tâm lý bướng bỉnh, muốn giữ chặt lấy quan niệm, ý kiến của mình, dù biết rằng sai. Còn kể một chuyện, nhất là chuyện lạ, có hứng thú thì ai cũng sẵn sàng nghe bạn, và bạn có thể mượn câu chuyện dẫn dụ thính giả, đưa họ tới đâu cũng được tới nỗi họ nhận cả những ý trái ngược với thành kiến của họ.
Như trên đã nói, những tác phấm của Dale Carnegie sở dĩ bán rất chạy là vì trong đó tác phẩm lý luận mà kể chuyện rất có duyên. Bài diễn văn "Hàng mẫu kim cương" ở phần phụ lục sở dĩ đã diễn đi diễn lại tới 5.700 lần cũng vì lẽ ấy : từ đầu tới cuối cũng đều là những chuyện lý thú.
Tóm tắt
1) Lời lẽ sáng sủa, rõ ràng, phải có sự liên lạc tự nhiên giữa các ý. Đừng lý thuyết nhiều quá.
2) Có nhiều phép lý luận (tam đoạn, quy nạp, liên đoạn, song quan, phản chứng. . .) nhưng phải để ý, đừng :
- Chưa định nghĩa rõ ràng đã lý luận
- Định nghĩa sai
- Lấy một trường hợp đặc biệt mà nâng lên tổng quát
- Lầm về nguyên nhân
- Lầm nguyên nhân với kết quả
- Vướng vào vòng luẩn quẩn
3) Có nhiều cách bác kẻ khác (hoặc bác lý luận của họ hoặc bác thành kiến của họ, bác sự kiện, tài liệu của họ đưa ra...) nhưng đừng bao giờ vội vàng hoặc không cần phải bác những lời mỉa mai.
4) Lý nào mạnh nhất diễn sau
5) Trong bài diễn văn không cần có đoạn chuyển
6) Phải luyện đủ các lối : Tả cảnh, tả người, tả tình, tự sự, bình luận...
Xem kỳ kế tiếp: Cách soạn một bài diễn văn (Kỳ 5): Kết bài
Nhận xét
Đăng nhận xét